Giá gạo Việt cao hàng đầu khu vực, vì sao hàng trăm nghìn tấn xuất khẩu vẫn mắc ‘kẹt’?
Xuất khẩu gạo Việt Nam giảm mạnh khi một số thị trường quan trọng siết nhập khẩu, khiến hàng trăm nghìn tấn gạo bị tồn kho.
Dù giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vẫn ở mức cao so với nhiều quốc gia, hoạt động xuất khẩu lại đang đối mặt hàng loạt khó khăn do chính sách nhập khẩu thắt chặt từ các thị trường chủ lực, khiến hàng trăm nghìn tấn gạo bị “kẹt” chưa thể giao.
Giá gạo trong nước ổn định, nhưng xuất khẩu chững lại
Theo Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công Thương), kết thúc phiên giao dịch cuối tuần qua, giá gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung ổn định.
Chỉ riêng gạo OM 18 giảm nhẹ 100 đồng/kg, xuống còn 8.400–8.600 đồng/kg; gạo IR 504 giữ mức 7.900–8.050 đồng/kg. Ở nhóm phụ phẩm, tấm loại 2 dao động 7.150–7.250 đồng/kg, còn cám gạo quanh 6.850–7.000 đồng/kg.
Việc giá nguyên liệu ổn định giúp nông dân và doanh nghiệp phần nào yên tâm hơn trong bối cảnh xuất khẩu gặp biến động.
Trên thị trường quốc tế, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đến ngày 16-10, giá gạo trắng 5% tấm của Việt Nam được chào bán 372–376 USD/tấn; gạo thơm 5% tấm 420–450 USD/tấn; Jasmine khoảng 486–490 USD/tấn.
Mức giá này cao hơn đáng kể so với các đối thủ: Ấn Độ (364–368 USD/tấn), Pakistan (347–351 USD/tấn) và Thái Lan thấp nhất (335–339 USD/tấn).
Giá gạo Việt Nam cao phản ánh chất lượng và thương hiệu đã được nâng tầm, nhưng đồng thời cũng tạo áp lực cạnh tranh trong bối cảnh thị trường tiêu thụ bị thu hẹp.

Thị trường lớn đồng loạt siết nhập khẩu
Theo Tổng cục Hải quan, tháng 9-2025, xuất khẩu gạo Việt Nam chỉ đạt hơn 466.000 tấn, trị giá 232,38 triệu USD, giảm gần 47% so với tháng trước; giảm 43,3% về lượng và 54,7% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái.
Lũy kế 9 tháng đầu năm, Việt Nam xuất hơn 6,8 triệu tấn, thu về gần 3,5 tỷ USD – giảm 2% về lượng và 20% về giá trị so với cùng kỳ 2024.
Nguyên nhân chính là việc Philippines – thị trường chiếm gần một nửa lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam – tạm ngừng nhập khẩu 60 ngày từ đầu tháng 9 và đang xem xét kéo dài đến cuối năm.
Chỉ riêng tháng 9, lượng gạo xuất sang nước này giảm hơn 93% về khối lượng và 92% về giá trị so với tháng 8, chỉ còn 32.819 tấn (17,56 triệu USD) – mức thấp nhất trong hơn 7 năm.
Philippines từ vị trí số 1 tụt xuống thứ 6 trong danh sách các thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam, chỉ chiếm 7% thị phần (so với gần 46% trước đó).
Tính chung 9 tháng, Việt Nam xuất sang Philippines 2,94 triệu tấn gạo, kim ngạch 1,44 tỷ USD – giảm 8,9% về lượng và 27,1% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Theo tờ Philstar, chính phủ Philippines đang xem xét kéo dài lệnh ngừng nhập khẩu đến hết năm 2025 nhằm nâng giá lúa nội địa và bảo vệ nông dân. Bộ trưởng Nông nghiệp Philippines Francisco Tiu Laurel Jr. cho biết Tổng thống Marcos đang cân nhắc khôi phục thuế nhập khẩu 35%, thay vì 15% hiện nay, để hạn chế nhập khẩu.
Dữ liệu từ Cục Công nghiệp Thực vật Philippines (BPI) cho thấy, tính đến ngày 9/10, nước này đã nhập 3,3 triệu tấn gạo – trong đó Việt Nam chiếm tới 81% (hơn 2,6 triệu tấn), vượt xa kế hoạch ban đầu 2,7 triệu tấn.
Không chỉ Philippines, Indonesia – thị trường lớn thứ hai – cũng siết chặt hạn ngạch nhập khẩu, khiến nhiều hợp đồng bị hoãn hoặc hủy. Ước tính khoảng 500.000 tấn gạo của doanh nghiệp Việt đang bị “kẹt” tại kho, chưa thể giao hàng.
Việc hai thị trường lớn đồng loạt hạn chế nhập khẩu, trong khi Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu, đã kéo giá gạo toàn cầu giảm sâu, hiện ở mức thấp nhất trong nhiều năm. Trong tháng 9, giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam chỉ còn 498 USD/tấn, giảm 1,1% so với tháng trước và hơn 20% so với cùng kỳ năm 2024.
Thực tế, xuất khẩu gạo sang châu Phi và Trung Quốc đang tăng mạnh, bù đắp phần nào sự sụt giảm từ Đông Nam Á: Ghana trong tháng 9 vươn lên dẫn đầu với 102.200 tấn, tăng gần 20%; Bờ Biển Ngà tăng 133%, Trung Quốc tăng 405,5%, Senegal tăng tới 83.780%.
Lũy kế 9 tháng, Bờ Biển Ngà đạt 852.542 tấn (tăng 2,5 lần), Ghana 764.649 tấn (tăng gần 80%), Trung Quốc 599.928 tấn (tăng gần 150%).
Hướng đến phân khúc gạo cao cấp, xây dựng thương hiệu quốc gia
Theo Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam – Đỗ Hà Nam, khó khăn hiện nay là “phép thử cho năng lực tự chủ của ngành gạo Việt Nam”. Ông nhấn mạnh:“Chúng ta không thể tiếp tục phụ thuộc vào một vài thị trường lớn mà phải chủ động xây dựng sức mạnh từ chất lượng hạt gạo, chuỗi sản xuất đến thương hiệu quốc gia.”
VFA cũng khuyến cáo doanh nghiệp không nên hạ giá bán ồ ạt, mà cần tập trung tìm thị trường mới và phát triển phân khúc cao cấp như ST24, ST25, Jasmine, gạo hữu cơ, phục vụ các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu – nơi giá trị cao hơn và ít chịu tác động từ biến động chính sách ngắn hạn.
Giới chuyên gia nhận định, thị trường nội địa hiện vẫn ổn định, nông dân có lãi, doanh nghiệp duy trì hoạt động. Tuy nhiên, bài toán lâu dài nằm ở năng lực chế biến sâu, truy xuất nguồn gốc và nâng cao chất lượng. Khi đó, gạo Việt không chỉ “bán được”, mà còn “được chọn”, đủ sức cạnh tranh bền vững trên bản đồ gạo thế giới.
(Theo Nguoiquansat.vn)



