Tin kinh tế

Philippines sẽ bắt đầu nhập khẩu gạo vào tháng 1/2026 với mức thuế suất mới, gạo Việt Nam cần chú ý điều gì?

Tháng 1/2026, Philippines sẽ bắt đầu nhập khẩu gạo trở lại, với mức thuế suất mới, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam cần chú ý điều gì? Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) cho biết quốc gia này sẽ tiếp tục nhập khẩu gạo vào tháng 1/2026, với mức thuế suất mới (thuế suất mới sẽ được xác định vào giữa tháng 12/2025).

Tháng 1/2026, chắc chắn Philipines-quốc gia mua gạo nhiều nhất khối Đông Nam Á sẽ phải nhập khẩu gạo

Trung tâm Thông tin công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương (VITIC) dẫn các nguồn tin từ gmanetwork, cho biết Bộ Nông nghiệp Philippines (DA) cho biết, quốc gia này sẽ tiếp tục nhập khẩu gạo vào tháng 1/2026, với mức thuế suất mới (thuế suất mới sẽ được xác định vào giữa tháng 12/2025).

Theo gmanetwork, phát biểu tại một cuộc họp báo ở thành phố Quezon vào đầu tháng 11/2025, Bộ trưởng Nông nghiệp Philippines Francisco Tiu Laurel Jr cho biết: “Chắc chắn phải bắt đầu nhập khẩu vào tháng 1/2026 vì chúng ta phải đảm bảo có đủ lượng dự trữ cho vụ thu hoạch tiếp theo”.

Điều này diễn ra sau khi Tổng thống Ferdinand “Bongbong” Marcos Jr. ban hành Sắc lệnh Hành pháp số 102, gia hạn lệnh cấm nhập khẩu gạo xay xát thường và gạo xay xát kỹ đến ngày 31 tháng 12 năm 2025.

Lệnh cấm này được ông Marcos ban hành lần đầu tiên vào tháng 8/2025 và ban đầu được ấn định chỉ kéo dài đến ngày 30/10/2025.

“Về vấn đề thuế quan, tôi không khuyến khích việc sử dụng lại mức thuế 35% ngay lập tức”, “Bởi hiện tại chúng ta không nhập, nêu khi chúng ta bắt đầu nhập khẩu trở lại, giá quốc tế sẽ tăng lên, vì vậy nếu chúng ta ngay lập tức tăng thuế lên 35%… người tiêu dùng sẽ bị ảnh hưởng”, ông Tiu Laurel nói.

Theo Sắc lệnh Hành pháp số 62 ban hành vào tháng 6/2024, ông Marcos đã hạ thuế suất gạo từ 35% xuống còn 15% cho đến năm 2028.

Trong khi đó, Hội đồng Phát triển Kinh tế, do Tổng thống làm chủ tịch, đã thông qua khuyến nghị của Ủy ban Thuế quan và các Vấn đề Liên quan (TRMC) về việc điều chỉnh thuế suất dần dần và linh hoạt hơn, với mức 5 điểm phần trăm mỗi khi giá gạo quốc tế thay đổi 5%, với mức thuế suất tối thiểu là 15% và mức thuế suất tối đa là 35%, bắt đầu từ ngày 1/1/2026.

Ông Tiu Laurel cho biết, khi việc nhập khẩu gạo được nối lại vào tháng 1 năm sau, “một điều chắc chắn là thuế suất sẽ không còn là 15% nữa”.

Bộ trưởng cho biết thêm rằng: “Có một nhóm công tác đang làm việc về vấn đề này, ngày 15/12 là hạn chót để xác định mức thuế suất phù hợp cho thời điểm 1/1/2026… và đó là mục tiêu nội bộ của chúng tôi”.

Samahang Industriya ng Agrikultura (SINAG) đang kêu gọi khôi phục hoàn toàn mức thuế nhập khẩu gạo 35%, vì mức thuế suất 15% hiện tại chỉ được áp dụng như một biện pháp khẩn cấp tạm thời vào thời điểm giá gạo toàn cầu tăng vọt lên khoảng 680 USD/tấn. Tuy nhiên, hiện nay, giá gạo quốc tế đã giảm gần 50%, chỉ còn 330 USD/tấn. Không có lý do kinh tế hay đạo đức nào để tiếp tục coi tình hình này là ‘tình trạng khẩn cấp’, SINAG cho biết.

Theo SINAG: “Mức thuế suất giảm càng kéo dài thì thiệt hại cho nông dân trồng lúa địa phương càng lớn, những người vốn đã đang lao đao vì giá lúa tại ruộng thấp”.

Dữ liệu từ Cơ quan Thống kê Philippines (PSA) cho thấy giá lúa tại ruộng tháng 8/2025 của Philipines trung bình ở mức 17,11 peso/kg, nay đã giảm xuống mức thấp nhất là 8 peso/kg.

Trong khi đó, giá gạo thương mại tại các thị trường Metro Manila dao động từ 39,50 peso đến 57,76 peso/kg đối với gạo nhập khẩu và từ 37,10 peso đến 57,09 peso/kg đối với gạo nội địa.

Trong thời gian gần đây, thị trường lúa gạo toàn cầu có xu hướng ổn định hơn sau giai đoạn biến động mạnh bởi các yếu tố như thời tiết, nguồn cung từ Ấn Độ và biến động tỷ giá. Nguồn cung từ Việt Nam đang khá dồi dào nhờ sản lượng vụ Thu – Đông khả quan, trong khi một số quốc gia xuất khẩu khác bước vào kỳ giảm sản lượng do ảnh hưởng thời tiết.

Ở chiều ngược lại, nhu cầu nhập khẩu của nhiều thị trường lớn vẫn còn yếu, khiến hoạt động giao dịch chưa sôi động trở lại. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, giá gạo có khả năng biến động nhẹ trong thời gian tới khi doanh nghiệp trong nước tăng cường thu gom để chuẩn bị cho các hợp đồng giao cuối năm cũng như mùa cao điểm tiêu thụ đầu năm sau.

Dự báo trong ngắn hạn, thị trường lúa gạo trong nước sẽ tiếp tục duy trì xu hướng ổn định. Giá có thể tăng nhẹ nếu nhu cầu xuất khẩu khởi sắc hoặc nguồn cung trong dân giảm dần sau thời gian nông dân giữ hàng.

Với vị thế là một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, Việt Nam được kỳ vọng sẽ duy trì ổn định nguồn cung và giá cạnh tranh trong bối cảnh thị trường quốc tế đang dần lấy lại đà tăng trưởng.

Theo Cục Hải quan, trong tháng 10, xuất khẩu gạo của Việt Nam chỉ đạt 339.281 tấn, trị giá 176,9 triệu USD, giảm mạnh 56,7% về lượng và 64,8% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu 7,2 triệu tấn gạo, thu về 3,7 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2024, lượng xuất khẩu giảm 6,5% và giá trị giảm mạnh 23,8%. Giá gạo xuất khẩu bình quân đạt 511 USD/tấn, giảm 18,5% so với cùng kỳ năm trước.

Những con số này không chỉ phản ánh nhu cầu ổn định của thị trường, mà còn cho thấy sự dịch chuyển mạnh mẽ về chất lượng của gạo Việt Nam. Đây cũng là định hướng để ngành lúa gạo phát triển và phát huy lợi thế của hạt gạo chất lượng cao của Việt Nam.

Để giảm thiểu rủi ro, các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam đã tích cực mở rộng thị trường sang các nước châu Phi, đặc biệt là Ghana và Bờ Biển Ngà và các nước khu vực châu Á.

Thay vì tập trung vào các dòng gạo trung bình, cơ cấu xuất khẩu gạo đang nghiêng rõ về gạo thơm, gạo Japonica và đặc biệt là gạo sản xuất theo quy trình phát thải thấp. Ưu thế gạo thơm và chất lượng cao được ưa chuộng tại các thị trường cao cấp như EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản đang là lợi thế cho gạo Việt.

Bên cạnh đó, các Hiệp định thương mại tự do, cùng chính sách hỗ trợ sản xuất như chuyển đổi cơ cấu sản xuất, nguồn cung trong nước cơ bản đảm bảo tạo thuận lợi cho gạo Việt xuất khẩu.

Trong chiến lược phát triển gạo chất lượng cao, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp mà Chính phủ đang triển khai được xem là nền tảng quan trọng. Đề án chuẩn hóa quy trình từ giống, canh tác đến thu hoạch. Đồng thời tạo ra vùng nguyên liệu tập trung, đồng nhất – điều kiện bắt buộc để tiến vào các thị trường cao cấp.

Sự chuyển dịch từ “xuất nhiều” sang “xuất có giá trị” đang tạo lợi thế cạnh tranh rõ rệt cho hạt gạo Việt Nam. Đây cũng là xu thế mà nhiều doanh nghiệp đang thực hiện. Ngay cả khi xuất khẩu gạo cả nước sụt giảm mạnh về giá trị và kim ngạch, gạo chất lượng cao, gạo phát thải thấp cùng sản phẩm chế biến sâu vẫn tạo lợi thế cạnh tranh mới.

(Theo Danviet.vn)

 

Bài viết liên quan

Back to top button